Trong 80 năm qua, ngành viễn thông đã có sự phát triển vượt bậc. Nhiều người đam mê điện thoại thông minh ngày nay không thực sự biết ngành công nghiệp này đã đi được bao xa. Đó là lý do tại sao chúng tôi viết bài này để nhìn lại sự phát triển của ngành viễn thông sau Thế chiến thứ hai.

SCR-300
SCR-300

Trong Thế chiến thứ hai, máy bộ đàm dòng SCR của Motorola đã đạt được thành công lớn trên chiến trường. Ông đã cho thế giới thấy sức mạnh của truyền thông không dây. Nó cũng khiến mọi người muốn áp dụng chúng vào thị trường dân sự.

Những chiếc điện thoại di động đầu tiên

Sau chiến tranh, vào năm 1946, AT&T ở Hoa Kỳ đã kết nối bộ thu không dây với Mạng Điện thoại Chuyển mạch Công cộng (PSTN). Ông cũng chính thức ra mắt MTS (Dịch vụ Điện thoại Di động) cho mục đích dân sự.

Trong MTS, nếu người dùng muốn thực hiện cuộc gọi, trước tiên họ phải tìm kênh không dây miễn phí theo cách thủ công. Nếu nhận được một kênh, nó sẽ nói chuyện với nhà điều hành, yêu cầu bên kia thiết lập kết nối thứ hai qua mạng PSTN.

Toàn bộ cuộc gọi sử dụng chế độ bán song công, nghĩa là mỗi lần chỉ có một người gọi có thể nói. Trong khi gọi, người dùng phải nhấn nút ấn để nói chuyện trên điện thoại. Không thuận tiện lắm phải không?

v

Phương thức tính phí hoặc thanh toán trong MTS cũng rất thô sơ. Người điều hành sẽ lắng nghe cuộc trò chuyện giữa 2 bên trong suốt quá trình. Sau đó, nó sẽ tự tính toán chi phí sau khi cuộc gọi kết thúc và xác nhận hóa đơn. Đây là hệ thống thông tin di động thương mại đầu tiên trong lịch sử loài người.

Leonid và chiếc điện thoại di động LK-1 của anh ấy
Leonid và chiếc điện thoại di động LK-1 của anh ấy

Bạn có thể sẽ nói rằng điện thoại di động được phát minh vào những năm 1970? Tại sao nó tồn tại vào những năm 1940? Đừng hoảng sợ, "điện thoại di động" đó không phải là điện thoại di động thực sự. Thực chất nó là một chiếc điện thoại di động trên ô tô. Chính xác hơn là một chiếc máy bộ đàm bán song công trên ô tô.

Điện thoại di động ô tô

Vào thời điểm đó, việc phát minh ra điện thoại di động sử dụng công nghệ điện tử và pin là điều không thể. Tuy nhiên, lúc đó đã có nhiều ô tô.

Bộ thu tín hiệu khổng lồ trong cốp ô tô
Bộ thu tín hiệu khổng lồ trong cốp ô tô

Vào thời điểm đó, “trạm gốc” cũng rất lớn, có phần giống một tháp phát thanh và truyền hình. Cô ấy là người duy nhất trong thành phố, và họ có cô ấy ở trung tâm thành phố. Tòa tháp bao phủ bán kính 40 km với sức mạnh cực kỳ cao.

Vào tháng 1947 năm XNUMX, nhà nghiên cứu Douglas H. Ring của Bell Labs lần đầu tiên đề xuất ý tưởng “giao tiếp di động”. Điều này đánh dấu sự khởi đầu cho sự phát triển của ngành viễn thông. Ông tin rằng thay vì tăng công suất truyền tín hiệu một cách mù quáng, tốt hơn hết là nên giới hạn phạm vi truyền tín hiệu và kiểm soát tín hiệu trong một khu vực giới hạn (ô).

Nguyên lý hoạt động của tế bào
Nguyên lý hoạt động của tế bào

Do đó, các ô khác nhau có thể sử dụng cùng tần số mà không ảnh hưởng lẫn nhau, làm tăng băng thông của hệ thống.

Tài liệu của Douglas có tựa đề "Phủ sóng toàn bộ khu vực điện thoại di động"
Tài liệu của Douglas có tựa đề "Phủ sóng toàn bộ khu vực điện thoại di động"

Mặc dù ý tưởng về truyền thông di động rất hay nhưng vào thời điểm đó vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy Bell Labs đã gác lại nó như ý tưởng của họ.

Châu Âu và Mỹ đang phát triển điện thoại trên ô tô

Vào những năm 1950, ngày càng có nhiều quốc gia bắt đầu xây dựng mạng điện thoại ô tô. Ví dụ, vào năm 1952 Tây Đức đã ra mắt A-Netz. Năm 1961, kỹ sư Liên Xô Leonid Kupriyanovych cũng đã phát minh ra điện thoại di động LK-1, loại điện thoại này cũng được lắp trên ô tô. Sau đó, ở Liên Xô, hệ thống điện thoại ô tô "Altai" đã được triển khai, phủ sóng hơn 30 thành phố của cả nước.

Leonid và chiếc điện thoại di động LK-1 của anh ấy
Leonid và chiếc điện thoại di động LK-1 của anh ấy

Năm 1969, Hoa Kỳ giới thiệu hệ thống điện thoại ô tô MTS cải tiến có tên IMTS (MTS cải tiến). IMTS hỗ trợ chế độ song công hoàn toàn, quay số tự động và tìm kiếm kênh tự động và có thể cung cấp 11 kênh (sau này là 12). Đây là một bước nhảy vọt về chất so với MTS.

Điện thoại di động IMTS (Motorola)
Điện thoại di động IMTS (Motorola)

Năm 1971, Phần Lan ra mắt mạng di động công cộng ARP (Auto Radio Puhelin – Puhelin trong tiếng Phần Lan có nghĩa là điện thoại). Thiết bị này hoạt động ở băng tần 150 MHz nhưng vẫn được chuyển mạch thủ công và chủ yếu được sử dụng cho dịch vụ điện thoại trên ô tô.

Có thể là Altai, IMTS hoặc ARP, sau này nó được gọi là công nghệ truyền thông di động "0G" hoặc "Pre-1G" (trước 1G). Bây giờ hãy xem ngành viễn thông mang lại những gì trong kỷ nguyên 1G.

Kỷ nguyên 1G trong ngành viễn thông

Sự phát triển của công nghệ bán dẫn đã mang lại nhiều cơ hội hơn cho sự phát triển của ngành viễn thông. Điều này đã không xảy ra cho đến những năm 70. Năm 1973, kỹ sư Martin Cooper và John F. Mitchell của Motorola cuối cùng đã thay đổi lịch sử mãi mãi. Họ đã phát minh ra chiếc điện thoại di động thực sự đầu tiên trên thế giới (điện thoại di động cá nhân bỏ túi).

Điện thoại được đặt tên là DynaTAC (Phạm vi phủ sóng tổng diện tích thích ứng động). Nó cao 22 cm, nặng 1,28 kg, có thể nói chuyện trong 20 phút và được trang bị một ăng-ten khổng lồ.

DynaTAC là thế hệ đầu tiên
DynaTAC là thế hệ đầu tiên

Năm 1974, Ủy ban Truyền thông Liên bang Hoa Kỳ (FCC) đã phê duyệt một phần phổ tần số vô tuyến để sử dụng trong việc thử nghiệm mạng di động. Tuy nhiên, cuộc thử nghiệm đã bị trì hoãn đến năm 1977 trước khi chính thức bắt đầu. Vào thời điểm đó, có hai đối thủ tham gia thử nghiệm - AT&T và Motorola.

Quốc hội Hoa Kỳ năm 1964 đã "tước bỏ" khả năng sử dụng thương mại thông tin vệ tinh của AT&T. Trong cơn tuyệt vọng, họ đã thành lập bộ phận truyền thông di động tại Bell Labs để tìm kiếm cơ hội mới.

Tiến độ 1G chậm nhưng ổn định

Giữa năm 1964 và 1974, Bell Labs đã phát triển một hệ thống tương tự có tên HCMTS (Hệ thống Điện thoại Di động Âm lượng Cao). Các kênh tín hiệu và giọng nói của hệ thống sử dụng điều chế FM với băng thông 30 kHz và tốc độ truyền 10 kbit/s.

Vì lúc đó chưa có tổ chức tiêu chuẩn di động không dây nên AT&T đã thiết lập tiêu chuẩn riêng cho HCMTS. Hiệp hội Công nghiệp Điện tử (EIA) sau đó đã đặt tên cho hệ thống này là Tiêu chuẩn tạm thời 3 (IS-3).

Năm 1976, HCMTS đổi tên thành AMPS (Dịch vụ điện thoại di động nâng cao). AT&T đã sử dụng công nghệ AMPS để tiến hành các cuộc thử nghiệm FCC ở Chicago và Newark.

Hãy nhìn lại Motorola. Motorola lần đầu tiên phát triển công nghệ RCC (Radio Common Carrier) và kiếm được rất nhiều tiền. Vì vậy, họ phản đối mạnh mẽ việc FCC cấp phổ tần cho truyền thông di động để không ảnh hưởng đến thị trường RCC của họ. Nhưng đồng thời, họ đã phát triển một cách tuyệt vọng các công nghệ truyền thông di động và dự trữ kỹ thuật. Đây là cách công ty DynaTAC ra đời.

Sau khi FCC công bố phổ tần, Motorola đã tiến hành thử nghiệm dựa trên DynaTAC ở Washington. Trong khi họ vẫn đang thử nghiệm chậm rãi thì các quốc gia khác đã dẫn đầu.

Mạng 1G thương mại đầu tiên ở Nhật Bản

Năm 1979, Nippon Telegraph and Electrical (NTT) đã ra mắt hệ thống liên lạc di động tự động thương mại đầu tiên trên thế giới tại khu vực đô thị Tokyo. Hệ thống này sau đó được công nhận là mạng 1G thương mại đầu tiên trên thế giới.

Điện thoại di động Nhật Bản
Điện thoại di động Nhật Bản

Vào thời điểm đó, hệ thống có 88 trạm gốc hỗ trợ chuyển đổi cuộc gọi hoàn toàn tự động giữa các nút di động khác nhau mà không cần can thiệp thủ công. Hệ thống sử dụng công nghệ FDMA, băng thông kênh là 25 kHz, nằm trong băng tần 800 MHz và tổng số kênh song công là 600.

1G ở Châu Âu

Hai năm sau, vào năm 1981, các quốc gia Bắc Âu, Na Uy và Thụy Điển đã tạo ra mạng thông tin di động 1G đầu tiên ở Châu Âu - NMT (Điện thoại di động Bắc Âu). Đan Mạch và Phần Lan sớm tham gia cùng họ. NMT trở thành mạng truyền thông di động đầu tiên trên thế giới có khả năng chuyển vùng quốc tế.

Điện thoại NMT của Ericsson
Điện thoại NMT của Ericsson

Sau đó, NMT được Ả Rập Saudi, Liên Xô và một số nước vùng Baltic và châu Á khác giới thiệu.

Motorola ra mắt điện thoại di động 1G thương mại đầu tiên trên thế giới

Vào tháng 1983 năm 8000, Motorola phát hành chiếc điện thoại di động thương mại đầu tiên trên thế giới, DynaTAC XNUMXX.

DynaCT 8000X

Thiết bị này nặng 1 kg và có thể đàm thoại liên tục trong 30 phút. Một lần sạc đầy mất 10 giờ nhưng giá là 3995 USD.

1G ở Nam và Bắc Mỹ

Năm 1983, Hoa Kỳ cuối cùng cũng nhớ đến việc xây dựng mạng 1G thương mại của riêng mình. Vào ngày 13 tháng 1983 năm 1, Americitech Mobile Communications ra mắt mạng XNUMXG đầu tiên dựa trên công nghệ AMPS tại Hoa Kỳ.

Người dùng đầu tiên vào thời điểm đó, Dave Mailgan
Người dùng đầu tiên vào thời điểm đó, Dave Mailgan

Cả điện thoại ô tô và DynaTAC 8000X đều có thể được sử dụng trên mạng này. FCC đã phân bổ băng thông 40 MHz cho AMPS ở dải tần 800 MHz. Với băng thông này, AMPS hỗ trợ 666 kênh song công và băng thông của một kênh ngược dòng hoặc hạ lưu là 30 kHz. Sau đó, FCC đã phân bổ thêm băng thông 10 MHz. Do đó, tổng số kênh AMPS song công trở thành 832.

Trong năm đầu tiên đưa vào sử dụng thương mại, Americitech đã bán được khoảng 1 chiếc điện thoại di động DynaTAC 200X, tiếp cận 8000 người dùng. Sau 200 năm, số lượng người dùng đã lên tới 000 triệu.

Số lượng người dùng tăng nhanh vượt xa khả năng của mạng AMPS. Sau này, để tăng dung lượng, Motorola đã giới thiệu phiên bản băng thông hẹp của công nghệ AMPS, có tên gọi là NAMPS. Nó chia kênh thoại 30 kHz hiện tại thành ba kênh 10 kHz (tổng số kênh là 2496) để tiết kiệm phổ tần và tăng công suất.

Vương quốc Anh tham gia 1G

Bên cạnh NMT và AMPS, một chuẩn 1G khác được sử dụng rộng rãi là TACS (Total Access Communications Systems), được phát hành lần đầu tiên ở Anh.
Tháng 1983 năm XNUMX, chính phủ Anh thông báo hai công ty BT (British Telecom) và Racal Millicom (tiền thân của Vodafone) sẽ xây dựng mạng thông tin di động TACS dựa trên công nghệ AMPS.

Ngày 1/1985/10, Vodafone chính thức ra mắt dịch vụ TACS (thiết bị mua từ Ericsson). Vào thời điểm đó chỉ có XNUMX trạm gốc bao phủ toàn bộ khu vực London.

Băng thông TACS kênh đơn là 25 kHz, đường lên sử dụng 890-905 MHz, đường xuống sử dụng 935-950 MHz, tổng cộng 600 kênh được sử dụng để truyền tín hiệu thoại và tín hiệu điều khiển.

Hệ thống TACS chủ yếu được Motorola phát triển và thực tế là phiên bản sửa đổi của hệ thống AMPS. Ngoại trừ dải tần, khoảng cách kênh, độ dịch tần và tốc độ truyền tín hiệu, chúng hoàn toàn giống nhau.

So với NMT ở Bắc Âu, đặc điểm vận hành của TACS khác biệt đáng kể. NMT phù hợp với vùng nông thôn dân cư thưa thớt của các nước phía Bắc (Scandinavia). Nó sử dụng tần số 450 MHz (sau này đổi thành 800 MHz) và có phạm vi di động lớn hơn.

Ưu điểm của TACS là băng thông chứ không phải khoảng cách phủ sóng. Hệ thống TACS có công suất phát thấp và phù hợp với những quốc gia có mật độ dân số cao và khu đô thị lớn như Anh.

Khi số lượng người dùng tăng lên, TACS sau đó đã thêm một số dải tần (10 MHz) và trở thành ETACS (TACS mở rộng). NTT của Nhật Bản đã phát triển JTACS dựa trên TACS.

Trung Quốc tham gia phát triển 1G

Điều đáng chú ý là trạm gốc di động đầu tiên do Trung Quốc xây dựng tại Quảng Châu vào năm 1987 đã sử dụng công nghệ TACS và Motorola là đối tác.

Trạm cơ sở đầu tiên của Trung Quốc (Quảng Châu)
Trạm cơ sở đầu tiên của Trung Quốc (Quảng Châu)

Ngoài AMPS, TACS và NMT, công nghệ 1G còn có C-Netz ở Đức, Radiocom 2000 ở Pháp và RTMI ở Ý. Những công nghệ thành công này đã mở ra kỷ nguyên của truyền thông di động. Trên thực tế, không có cái tên nào như 1G trong ngành viễn thông vào thời điểm nó được sử dụng. Chỉ sau khi công nghệ 2G ra đời người ta mới gọi là 1G để phân biệt.

Kỷ nguyên 2G trong ngành viễn thông

Năm 1982, Ủy ban Bưu chính Viễn thông Châu Âu đã thành lập "Nhóm Chuyên gia về Truyền thông Di động", chịu trách nhiệm nghiên cứu các tiêu chuẩn truyền thông.

"Nhóm chuyên gia di động" này, tiếng Pháp viết tắt là GroupeSpécialMobile, sau này nghĩa của từ viết tắt này được đổi thành "Hệ thống truyền thông di động toàn cầu". Đây là những gì tất cả chúng ta bây giờ gọi là GSM.

Mục đích của việc tạo ra GSM là thiết lập một tiêu chuẩn mới toàn châu Âu và phát triển hệ thống thông tin di động mặt đất toàn châu Âu. Họ đưa ra các yêu cầu về sử dụng hiệu quả phổ tần, hệ thống chi phí thấp, thiết bị đầu cuối di động và chuyển vùng toàn cầu.

Trong những năm tiếp theo, Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Viễn thông Châu Âu (ETSI) đã có thể hoàn thành việc phát triển các thông số kỹ thuật GSM 900 MHz và 1800 MHz (DCS).

Năm 1991, công ty Phần Lan Radiolinja (hiện là một phần của ELISA Oyj) đã ra mắt mạng 2G đầu tiên trên thế giới dựa trên tiêu chuẩn GSM.

Như chúng ta đã biết, 2G sử dụng công nghệ số để thay thế công nghệ analog của 1G. Điều này cải thiện đáng kể chất lượng truyền thông và tính ổn định của hệ thống. Nó cũng giúp thiết bị an toàn hơn, đáng tin cậy hơn và giảm mức tiêu thụ năng lượng của thiết bị.

Bên cạnh GSM, một chuẩn 2G khác được biết đến rộng rãi là CDMA do Qualcomm đưa ra. Nói chính xác thì đó là IS-95 hoặc cdmaOne. IS-95 có hai phiên bản: IS-95A và IS-95B. Cái trước có thể hỗ trợ tốc độ dữ liệu cao nhất lên tới 14,4 kbps và cái sau lên tới 115 kbps.

Ngoài IS-95, Hoa Kỳ còn sản xuất IS-54 (Bắc Mỹ, mạng di động kỹ thuật số TDMA) và IS-136 (1996). Thực ra 2G không chỉ có GSM và CDMA. Hiệp hội các nhà sản xuất di động đã phát triển phiên bản kỹ thuật số của AMPS dựa trên công nghệ AMPS có tên D-AMPS (Digit-AMPS). Nó thực sự là một tiêu chuẩn 2G. Một chuẩn 2G khác là PDC (Personal Digital Cellular) của Nhật Bản.

Kỷ nguyên 2.5G

Vào cuối thế kỷ 20, khi sự phát triển bùng nổ của Internet diễn ra, con người đặt ra nhu cầu rất lớn về truy cập Internet di động. Do đó, GPRS (Dịch vụ vô tuyến gói chung, Dịch vụ vô tuyến gói chung) đã bắt đầu.

Có thể coi GPRS như một “plug-in” của GSM. Với sự trợ giúp của GPRS, mạng có thể cung cấp tốc độ truyền dữ liệu lên tới 114 Kbps.

Câu đầu tiên về GPRS được đưa ra vào năm 1993. Tuy nhiên, phải mất thêm bốn năm nữa giai đoạn đầu tiên của thỏa thuận mới diễn ra vào năm 1997. Đây có lẽ là một bước ngoặt trong lịch sử truyền thông di động cũng như ngành viễn thông. Vào thời điểm đó, dịch vụ truyền dữ liệu đã trở thành hướng phát triển chính của truyền thông di động.

Kỷ nguyên 2.75G

Sau khi công nghệ GPRS ra đời, các nhà khai thác truyền thông cũng phát triển công nghệ nhanh hơn. Công nghệ này là tốc độ dữ liệu nâng cao để phát triển GSM (EDGE). Tất nhiên, tất cả chúng ta đều biết hoặc đã nghe nói về EDGE vào một thời điểm nào đó trong đời.

Chữ E, thường đứng cạnh tín hiệu điện thoại di động, là viết tắt của EDGE.
Chữ E, thường đứng cạnh tín hiệu điện thoại di động, là viết tắt của EDGE.

Tính năng lớn nhất của EDGE là nó có thể cung cấp tốc độ truyền dữ liệu gấp đôi GPRS mà không cần thay thế phần cứng. Mạng EDGE đầu tiên trên thế giới được AT&T triển khai vào năm 2003 trên mạng GSM của chính họ.

Kỷ nguyên 3G trong ngành viễn thông

Năm 1996, diễn đàn UMTS (Hệ thống Truyền thông Di động Toàn cầu) được thành lập tại Châu Âu, tập trung phối hợp nghiên cứu trong lĩnh vực tiêu chuẩn 3G Châu Âu. Phe châu Âu do Nokia, Ericsson và Alcatel đại diện nhận thức rõ ràng về những lợi thế của CDMA. Vì vậy, họ đã phát triển hệ thống W-CDMA với nguyên tắc tương tự.

Nó được gọi là W-CDMA (Wide-CDMA) vì băng thông kênh của nó đạt tới 5 MHz, rộng hơn 1,25 MHz của CDMA2000.

 

Nhiều người không hiểu mối quan hệ giữa UMTS và WCDMA. Trên thực tế, UMTS là thuật ngữ chung cho 3G ở Châu Âu. WCDMA là một triển khai của UMTS và thường thuộc phần giao diện không dây. TD-SCDMA mà chúng ta sẽ nói đến sau cũng thuộc về UMTS.

Để có thể cạnh tranh với Mỹ, ETSI châu Âu cũng đã cùng nhau thành lập 3GPP (Dự án hợp tác thế hệ thứ XNUMX) với Nhật Bản, Trung Quốc, v.v. để hợp tác phát triển các tiêu chuẩn truyền thông di động XNUMXG toàn cầu.

Ngược lại, ở phe Bắc Mỹ, có nhiều ý kiến ​​khác nhau.

Cạnh tranh khốc liệt với 3G

Các công ty do Lucent và Nortel đại diện hỗ trợ WCDMA và 3GPP. Tuy nhiên, các công ty như Qualcomm đã hợp tác với Hàn Quốc để thành lập tổ chức 3GPP2 nhằm cạnh tranh với 3GPP. Tiêu chuẩn họ giới thiệu là tiêu chuẩn CDMA2000, dựa trên CDMA 1X (IS-95).

Mặc dù CDMA2000 là chuẩn 3G nhưng tốc độ đỉnh ban đầu không cao, chỉ 153 kbps. Sau đó, với việc chuyển sang EVDO (Tối ưu hóa dữ liệu EVolution), tốc độ truyền dữ liệu được cải thiện đáng kể. Nó mang lại tốc độ tải xuống cao nhất là 14,7 Mbps và tốc độ tải lên tối đa là 5,4 Mbps.

Trong giai đoạn này, Trung Quốc cũng tung ra chương trình ứng viên riêng hoạt động theo tiêu chuẩn 3G (còn gọi là TD-SCDMA) để cùng tham gia cuộc thi quốc tế.

Sau những cuộc cạnh tranh và cạnh tranh khốc liệt, Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU) cuối cùng đã xác nhận ba tiêu chuẩn 3G toàn cầu, đó là: WCDMA ở Châu Âu, CDMA2000 ở Mỹ và TD-SCDMA ở Trung Quốc.

Xét về tiến độ thương mại hóa 3G, NTT của Nhật Bản một lần nữa dẫn đầu.

Vào ngày 1 tháng 1998 năm 3, NTT Docomo ra mắt mạng XNUMXG thương mại đầu tiên trên thế giới (dựa trên WCDMA) tại Nhật Bản.

Kỷ nguyên 3.75G trong ngành viễn thông

Dựa trên UMTS, ETSI và 3GPP đã phát triển HSPA (truy cập gói tốc độ cao), HSPA+, HSPA+ kênh đôi và HSPA+ Evolution. Tốc độ của các công nghệ mạng này rõ ràng vượt xa tốc độ của 3G truyền thống, nó được dân gian gọi là 3,75G.

Đó là vì tốc độ của HSPA+ nhanh đến mức nó thậm chí còn đánh bại cả LTE và WiMAX đời đầu. Do đó, vào thời điểm đó, một số nhà khai thác (ví dụ: T-Mobile ở Mỹ) chưa bắt đầu xây dựng LTE ngay lập tức. Tuy nhiên, họ đã nâng cấp mạng HSPA hiện tại lên HSPA+. Trung Quốc sau đó cũng làm như vậy.

4G trong ngành viễn thông

Năm 1999, Ủy ban Tiêu chuẩn IEEE đã thành lập một nhóm làm việc để phát triển các tiêu chuẩn cho mạng đô thị không dây. Năm 2001, phiên bản đầu tiên của IEEE 802.16 chính thức được phát hành, sau này được chuyển đổi thành IEEE 802.16m. IEEE 802.16 sau này thường được gọi là WiMAX (Kết nối toàn cầu để truy cập vi sóng).

WiMAX đã giới thiệu các công nghệ tiên tiến như MIMO (đa ăng-ten) và OFDM (ghép kênh phân chia tần số trực giao). Tốc độ tải xuống cao hơn nhiều và điều này gây áp lực lớn cho 3GPP.

Vì vậy, dựa trên UMTS, 3GPP đang mở rộng triển khai LTE (MIMO và OFDM) để cạnh tranh với WiMAX. Sau đó, nó tiếp tục phát triển thành LTE-Advanced (2009) và tốc độ được tăng lên nhiều lần.

Năm 2008, Liên minh Viễn thông Quốc tế ITU đã ban hành các yêu cầu mà tiêu chuẩn 4G phải đáp ứng và gọi nó là IMT-Advanced. Chỉ có 3GPP LTE-Advanced, IEEE 802.16m và TD-LTE-Advanced do Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin Trung Quốc giới thiệu mới thực sự đủ tiêu chuẩn. Nói cách khác, đây là những tiêu chuẩn 4G thực sự.

Vào ngày 14 tháng 2009 năm XNUMX, mạng dịch vụ LTE công cộng đầu tiên trên thế giới đã được khai trương tại Stockholm và Oslo. Thiết bị mạng do Ericsson và Huawei cung cấp, còn thiết bị đầu cuối do Samsung cung cấp.

Sau một cuộc chiến tranh công nghiệp khốc liệt, LTE cuối cùng đã giành được WiMAX và nhận được sự ủng hộ cũng như công nhận trên toàn thế giới. WiMAX nhanh chóng bị mất điện và bị hỏng trong giá lạnh.

Kỷ nguyên 5G

Chúng ta không cần phải nói về sự phát triển của 5G phải không? Mỗi người chúng ta là chứng nhân của một lịch sử mới. Tất cả chúng ta đều đã chứng kiến ​​​​Dự án Đối tác Thế hệ Thứ ba (3GPP) ra mắt 5G (IMT-2020) để thống trị thế giới như thế nào.

Thời gian trôi, thời gian trôi. Sau gần một thế kỷ phát triển, mạng thông tin di động đã phát triển từ con số 0, từ yếu đến mạnh. Ông đã điều khiển bánh xe lịch sử chuyển động và đẩy nhanh sự thay đổi xã hội.

Tương lai của truyền thông di động sẽ đi về đâu? Chúng ta hãy chờ xem!

Nếu bạn tìm thấy lỗi, vui lòng đánh dấu một đoạn văn bản và nhấp vào Ctrl + Enter.

Phản ứng của bạn là gì?
Mát mẻ
1
Mát mẻ
Hạnh phúc
0
Hạnh phúc
Lắc
0
Lắc
Thú vị
0
Thú vị
Sad
0
Sad
Angry
0
Angry
Đọc Gizchina trên Google Tin tức

Bạn có thích bài viết này? Cảm ơn các biên tập viên!

Chia sẻ với bạn bè
Đánh giá tác giả
(Chưa có đánh giá nào)
GizChina.Com.Ua

Báo cáo lỗi

Văn bản sẽ được gửi đến các biên tập viên của chúng tôi: